Đại dịch covid 19 là gì? Các công bố khoa học về Đại dịch covid 19
Đại dịch Covid-19, được gọi tắt là Covid-19, là một đại dịch toàn cầu do virus SARS-CoV-2 gây ra. Đã được công nhận là đại dịch bởi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ...
Đại dịch Covid-19, được gọi tắt là Covid-19, là một đại dịch toàn cầu do virus SARS-CoV-2 gây ra. Đã được công nhận là đại dịch bởi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) vào ngày 11 tháng 3 năm 2020. Covid-19 gây ra bệnh viêm đường hô hấp cấp do đóng góp vào các triệu chứng như sốt, ho khan, khó thở, mệt mỏi và những triệu chứng khác. Nó được truyền từ người sang người chủ yếu thông qua những giọt bắn từ hệ thống hô hấp khi một người nhiễm bệnh hoặc hắt hơi, hoặc thông qua tiếp xúc với các bề mặt đã bị nhiễm virus.
Covid-19 có nguồn gốc từ một chợ bán hải sản ở thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc vào cuối năm 2019. Virus SARS-CoV-2 được xác định là loại coronavirus mới chưa từng được biết đến trước đó ở con người. Nó có khả năng lây lan nhanh và dễ dàng qua tiếp xúc với những người nhiễm bệnh.
Covid-19 có thể ảnh hưởng đến mọi người ở mọi độ tuổi, nhưng những người già và những người có các bệnh lý tiền căn như tiểu đường, bệnh tim mạch và các bệnh mãn tính khác có nguy cơ cao hơn mắc bệnh nặng hoặc tử vong.
Triệu chứng phổ biến của Covid-19 bao gồm sốt, ho khan, khó thở, mệt mỏi và cảm giác như bị cảm lạnh. Có thể mất từ 2 đến 14 ngày sau khi tiếp xúc với virus để phát triển triệu chứng. Ngoài ra, cũng có một số người có thể không có triệu chứng hoặc có triệu chứng nhẹ.
Covid-19 lây lan chủ yếu qua giọt bắn có virus khi một người nhiễm bệnh hoặc hắt hơi. Nó cũng có thể lây lan thông qua tiếp xúc với các bề mặt đã bị nhiễm virus, sau đó chạm vào miệng, mũi hoặc mắt mà không rửa tay sạch.
Để ngăn chặn sự lây lan của Covid-19, các biện pháp phòng ngừa như rửa tay thường xuyên, đeo khẩu trang, giữ khoảng cách xã hội và tránh tiếp xúc gần với những người có triệu chứng hoặc đã nhiễm virus cần được thực hiện. Ngoài ra, các biện pháp kiểm soát đại dịch như kiểm tra và xác định người nhiễm bệnh, cách ly và tiêm chủng vaccine cũng được áp dụng để giảm tốc độ lây lan của virus.
Quá trình lây lan của Covid-19 diễn ra chủ yếu thông qua tiếp xúc gần với những người bị nhiễm virus và hít phải các giọt bắn có virus mà người bệnh phát ra khi ho, hắt hơi, nói chuyện hoặc thở ra. Virus cũng có thể tồn tại trên các bề mặt và vật liệu khác trong một khoảng thời gian nhất định.
Covid-19 có một độ truyền nhiễm cao, với số Reproduction (R0) trung bình là khoảng 2-3. Điều này có nghĩa là mỗi người mắc bệnh có thể lây nhiễm cho 2-3 người khác. Sự lây lan của Covid-19 cũng có thể xảy ra từ các nguồn nhiễm bệnh vô tình như chất tiếp xúc bị nhiễm virus hoặc qua việc chạm vào bề mặt đã bị nhiễm virus và sau đó chạm vào mũi, miệng hoặc mắt.
Triệu chứng của Covid-19 có thể khác nhau từ nhẹ đến nặng, và có thể mất từ 1 đến 14 ngày sau khi nhiễm bệnh để phát triển triệu chứng. Triệu chứng thường gặp bao gồm sốt, ho khô, mệt mỏi, đau cơ, khó thở và khó nuốt. Ngoài ra, cũng có thể xuất hiện một số triệu chứng khác như đau đầu, đau ngực và mất khả năng nếm mùi hoặc nếm vị.
Người mắc bệnh có thể chuyển từ trạng thái không triệu chứng (asymptomatic) sang trạng thái có triệu chứng trong suốt giai đoạn ủ bệnh. Ngoài ra, cũng có những người mang theo virus mà không bị nhiễm bệnh, nhưng có khả năng lây nhiễm cho người khác.
Người già và những người có hệ thống miễn dịch yếu, như những người bị bệnh mãn tính hoặc dùng thuốc ức chế miễn dịch, có nguy cơ cao hơn mắc bệnh nặng và gặp biến chứng nguy hiểm.
Để phòng ngừa sự lây lan của covid-19, rất nhiều biện pháp được áp dụng, bao gồm: rửa tay thường xuyên bằng xà phòng và nước hoặc dung dịch sát khuẩn có cồn; đeo khẩu trang khi tiếp xúc với người khác; giữ khoảng cách xã hội từ 1-2 mét; tránh tiếp xúc gần với những người có triệu chứng; tránh đụng độ đông người và đi vào những nơi đông người; và tuân thủ các quy định và hướng dẫn phòng ngừa covid-19 từ các cơ quan y tế và chính phủ.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "đại dịch covid 19":
Các đại dịch COVID-19 đã gây ra ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe tâm thần của công chúng. Do đó, việc giám sát và theo dõi sức khỏe tâm thần của dân cư trong thời gian khủng hoảng như đại dịch là một ưu tiên cấp bách. Mục tiêu của nghiên cứu này là phân tích các công trình nghiên cứu và phát hiện hiện có liên quan đến tỷ lệ căng thẳng, lo âu và trầm cảm trong cộng đồng chung trong thời gian đại dịch COVID-19.
Trong đánh giá hệ thống và phân tích tổng hợp này, các bài báo tập trung vào tỷ lệ căng thẳng và lo âu trong cộng đồng chung trong thời gian đại dịch COVID-19 đã được tìm kiếm trong các cơ sở dữ liệu Science Direct, Embase, Scopus, PubMed, Web of Science (ISI) và Google Scholar, không có giới hạn thời gian dưới và kéo dài đến tháng 5 năm 2020. Để thực hiện phân tích tổng hợp cho các nghiên cứu thu thập được, mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên đã được sử dụng, và tính không đồng nhất của các nghiên cứu đã được điều tra bằng chỉ số I2. Hơn nữa, phân tích dữ liệu được thực hiện bằng phần mềm Comprehensive Meta-Analysis (CMA).
Tỷ lệ căng thẳng trong 5 nghiên cứu với tổng số mẫu là 9074 được xác định là 29.6% (giới hạn tin cậy 95%: 24.3–35.4), tỷ lệ lo âu trong 17 nghiên cứu với kích thước mẫu là 63,439 là 31.9% (khoảng tin cậy 95%: 27.5–36.7), và tỷ lệ trầm cảm trong 14 nghiên cứu với kích thước mẫu là 44,531 người là 33.7% (khoảng tin cậy 95%: 27.5–40.6).
COVID-19 không chỉ gây ra mối lo ngại về sức khỏe thể chất mà còn dẫn đến một số rối loạn tâm lý. Sự bùng phát của virus corona mới có thể ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của người dân trong các cộng đồng khác nhau. Do đó, việc bảo vệ sức khỏe tâm thần của các cá nhân và phát triển các can thiệp tâm lý có thể cải thiện sức khỏe tâm thần của các nhóm dễ bị tổn thương trong thời gian đại dịch COVID-19 là rất cần thiết.
Sự lây lan không kiểm soát của bệnh coronavirus 2019 (COVID-19) đã yêu cầu các biện pháp chưa từng có, đến mức chính phủ Italy đã áp dụng một lệnh cách ly toàn quốc. Cách ly có tác động lớn và có thể gây ra áp lực tâm lý đáng kể. Nghiên cứu hiện tại nhằm xác định sự phổ biến của các triệu chứng tâm thần và xác định các yếu tố rủi ro cũng như bảo vệ cho sự căng thẳng tâm lý trong dân số chung. Một cuộc khảo sát trực tuyến đã được tiến hành từ ngày 18–22 tháng 3 năm 2020 với 2766 người tham gia. Các mô hình hồi quy logistic bậc đa biến đã được xây dựng để xem xét các mối liên hệ giữa các biến nhân khẩu học xã hội; các đặc điểm tính cách; trầm cảm, lo âu và căng thẳng. Giới tính nữ, cảm xúc tiêu cực và sự tách rời được liên kết với mức độ trầm cảm, lo âu và căng thẳng cao hơn. Việc có một người quen bị nhiễm bệnh được liên kết với mức độ trầm cảm và căng thẳng gia tăng, trong khi lịch sử các tình huống căng thẳng và các vấn đề sức khỏe liên quan được gắn với mức độ trầm cảm và lo âu cao hơn. Cuối cùng, những người có thành viên trong gia đình bị nhiễm bệnh và những người trẻ tuổi phải làm việc bên ngoài nơi ở của họ trình bày mức độ lo âu và căng thẳng cao hơn, tương ứng. Bức tranh dịch tễ học này là một mốc quan trọng để xác định những người có nguy cơ cao hơn trong việc chịu đựng căng thẳng tâm lý và các kết quả rất hữu ích cho việc điều chỉnh các can thiệp tâm lý nhắm đến bản chất chấn thương hậu của sự căng thẳng.
Nghiên cứu của chúng tôi nhằm mục đích điều tra tác động ngay lập tức của đại dịch COVID-19 đến sức khoẻ tâm thần và chất lượng cuộc sống của cư dân địa phương Trung Quốc từ 18 tuổi trở lên tại tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc. Một cuộc khảo sát trực tuyến đã được phát tán qua một nền tảng mạng xã hội từ tháng 1 đến tháng 2 năm 2020. Các tham gia viên đã hoàn thành một bảng câu hỏi đã được điều chỉnh và xác thực nhằm đánh giá Thang đo Tác động Sự kiện (IES), các chỉ số ảnh hưởng tiêu cực đến sức khoẻ tâm thần, hỗ trợ xã hội và gia đình, cũng như các thay đổi lối sống liên quan đến sức khoẻ tâm thần. Tổng cộng có 263 tham gia viên (106 nam và 157 nữ) đã hoàn thành nghiên cứu. Tuổi trung bình của các tham gia viên là 37,7 ± 14,0 tuổi, và 74,9% có trình độ học vấn cao. Điểm số IES trung bình của các tham gia viên là 13,6 ± 7,7, phản ánh một tác động căng thẳng nhẹ. Chỉ có 7,6% số tham gia viên có điểm IES ≥26. Phần lớn các tham gia viên (53,3%) không cảm thấy bất lực do đại dịch. Ngược lại, 52,1% số tham gia viên cảm thấy hoảng sợ và lo lắng do đại dịch. Thêm vào đó, phần lớn các tham gia viên (57,8–77,9%) nhận được sự hỗ trợ gia tăng từ bạn bè và các thành viên trong gia đình, và sự chia sẻ tình cảm và quan tâm tăng lên với những người trong gia đình và người khác. Kết luận, đại dịch COVID-19 có liên quan đến tác động căng thẳng nhẹ trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi, mặc dù đại dịch vẫn đang tiếp diễn. Những phát hiện này cần được xác minh trong các nghiên cứu trên dân số lớn hơn.
Đại dịch COVID-19 đã gây ra những thay đổi chưa từng có trong cuộc sống của 1,6 tỷ trẻ em và thanh thiếu niên. Các nghiên cứu ban đầu không đại diện từ Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil, Mỹ, Tây Ban Nha, Ý và Đức đã chỉ ra tác động tiêu cực đến sức khỏe tâm thần. Nghiên cứu hiện tại là nghiên cứu quốc gia đại diện đầu tiên nhằm điều tra tác động của đại dịch COVID-19 đối với chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe (HRQoL) và sức khỏe tâm thần của trẻ em và thanh thiếu niên tại Đức từ góc độ của chính trẻ em. Một khảo sát trực tuyến đại diện đã được thực hiện đối với
Đại dịch COVID-19 đã trở thành một vấn đề sức khỏe toàn cầu và có tác động lớn đến giáo dục. Do đó, vào giữa học kỳ thứ hai của năm học 2019/2020, các phương pháp học tập đã được chuyển sang hình thức học từ xa (DL). Chúng tôi nhằm mục đích đánh giá quan điểm của sinh viên về DL so với học trên lớp (CL) trong chương trình học nha sĩ đại học tại Khoa Nha khoa, Universitas Indonesia.
Một bảng hỏi trực tuyến đã được gửi vào cuối học kỳ. Tổng cộng có 301 sinh viên tham gia nghiên cứu.
Thời gian học có ảnh hưởng đến sở thích của sinh viên. Có nhiều sinh viên năm thứ nhất thích DL hơn so với các sinh viên khóa trên (
Khi đại dịch bệnh coronavirus mới 2019 (COVID-19) tiếp tục lan rộng ra khắp các quốc gia, nhu cầu áp dụng các biện pháp đổi mới để cung cấp sự chăm sóc y tế chất lượng cao và kiểm soát sự lây lan của nó đã trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Các hệ thống dựa trên phần mềm như các ứng dụng phần mềm y tế có thể cung cấp những gợi ý giá trị về thông tin sức khỏe cho các bác sĩ nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống, đặc biệt đối với bệnh nhân ngoại trú (ví dụ: người cao tuổi, người bị suy giảm miễn dịch, phụ nữ mang thai). Việc sử dụng telemedicine và phần mềm ảo mang lại tiềm năng hứa hẹn trong cuộc chiến chống lại COVID-19. Theo đó, thông qua việc rà soát tài liệu và nghiên cứu nhanh chóng, bài viết này cung cấp những hàm ý về cơ hội, ứng dụng và thách thức của telemedicine và phần mềm ảo đang được áp dụng hiện nay như là những sáng kiến phù hợp để giảm sự lây lan của COVID-19. Quan trọng hơn, các phát hiện trình bày những yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng telemedicine. Các phát hiện cho thấy telemedicine và phần mềm ảo có khả năng giảm số lần cần tới phòng cấp cứu, bảo vệ nguồn lực y tế và giảm thiểu sự lây lan của COVID-19 bằng cách điều trị bệnh nhân từ xa trong và sau đại dịch COVID-19.
Với vai trò của hành vi con người trong sự lây lan của bệnh tật, việc hiểu rõ những gì thúc đẩy con người tham gia hay tránh xa các hành vi liên quan đến sức khỏe trong thời kỳ đại dịch là vô cùng cần thiết. Bài báo này xem xét các yếu tố liên quan đến việc áp dụng các hành vi bảo vệ sức khỏe bản thân, chẳng hạn như giãn cách xã hội và đeo khẩu trang, vào đầu đại dịch Covid-19 tại Hoa Kỳ. Những hành vi này không chỉ làm giảm nguy cơ nhiễm bệnh của chính cá nhân mà còn hạn chế sự lây lan của bệnh tật tới những người khác. Mặc dù có được hai lợi ích này, nhưng việc áp dụng đồng bộ các hành vi này không được đảm bảo. Chúng tôi tập trung vào vai trò của sự khác biệt về kinh tế - xã hội trong việc giải thích hành vi, dựa trên dữ liệu thu thập vào tháng 4 năm 2020 trong giai đoạn đầu của đại dịch Covid-19. Dữ liệu bao gồm thông tin về thu nhập, giới tính và chủng tộc cùng với các biến số đặc thù liên quan đến đại dịch hiện tại, chẳng hạn như chế độ làm việc và chất lượng nhà ở. Chúng tôi nhận thấy rằng thu nhập cao hơn liên quan đến những thay đổi lớn hơn trong các hành vi tự bảo vệ. Những chênh lệch này được giải thích một phần bởi thực tế là những người có thu nhập thấp hơn thường báo cáo tình huống khiến việc áp dụng hành vi tự bảo vệ trở nên khó khăn hơn, chẳng hạn như không thể làm việc từ xa. Cả ở Hoa Kỳ và những nơi khác, các chính sách giả định sự tuân thủ phổ quát các biện pháp tự bảo vệ—hoặc không tính đến sự khác biệt kinh tế - xã hội trong chi phí thực hiện—khó có khả năng hiệu quả hoặc bền vững.
Đại dịch COVID-19 và các biện pháp phong tỏa được thực hiện đã tác động mạnh mẽ đến cuộc sống hàng ngày của mọi người. Những tình huống căng thẳng được biết đến là thay đổi thói quen ăn uống và làm tăng nguy cơ béo phì. Trong nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi nhằm mục đích điều tra ảnh hưởng của các biện pháp phong tỏa đến hành vi dinh dưỡng trong số người trẻ.
Trong nghiên cứu cắt ngang này, chúng tôi đã tuyển chọn 1964 người tham gia tự nguyện từ các trường đại học ở Bavaria. Tất cả người tham gia được yêu cầu hoàn thành một bảng câu hỏi trực tuyến, đánh giá bán định lượng lượng và loại thực phẩm trước và trong thời gian phong tỏa đại dịch. Những người tham gia nghiên cứu được hỏi để cung cấp thông tin về việc mua sắm và thu mua thực phẩm. Kết quả chính là sự thay đổi trong lượng thực phẩm, trong khi các kết quả thứ yếu bao gồm sự thay đổi trong thành phần thực phẩm và phương pháp thu mua.
Đại dịch toàn cầu COVID‐19 và những gián đoạn về kinh tế, sức khỏe và giáo dục đã làm rối loạn tất cả các khía cạnh trong cuộc sống của giới trẻ. Tầm ảnh hưởng của đại dịch có thể sẽ tiếp tục kéo dài trong thời gian tới, cùng với những diễn biến tâm lý và học thuật qua từng giai đoạn. Trong bài viết này, chúng tôi dựa vào các nguyên lý trung tâm của lý thuyết quá trình cuộc đời—các quỹ đạo phát triển liên kết, các cuộc sống liên kết và các hệ thống phân tầng (Elder, 1998)—để làm rõ những hiểu biết về các tác động tiêu cực tiềm tàng của đại dịch COVID‐19 đối với sự điều chỉnh và sức khỏe tâm lý của trẻ em và thanh thiếu niên, cũng như các cơ chế và quy trình có thể làm giảm hoặc gia tăng tác động tiêu cực của đại dịch. Chúng tôi review bằng chứng thực nghiệm về tác động của các cuộc khủng hoảng cấp vĩ mô trước đây (ví dụ: Cuộc đại suy thoái) để minh họa cách mà lý thuyết quá trình cuộc đời có thể hỗ trợ các nhà khoa học phát triển nghiên cứu ảnh hưởng của COVID‐19 đến sự phát triển của trẻ em. Chúng tôi kết luận với các khuyến nghị cho nghiên cứu.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10